Carlo Ancelotti (phát âm tiếng Ý: [ˈkarlo antʃeˈlɔtti]; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1959 tại Reggiolo) hay biệt danh Carletto, là một cựu cầu thủ bóng đá người Ý và hiện là huấn luyện viên của câu lạc bộ Real Madrid.
Ancelotti là một trong ba huấn luyện viên duy nhất đã vô địch UEFA Champions League ba lần ( hai lần với Milan và một lần với Real Madrid ), và là một trong hai huấn luyện viên những đội trong bốn trận chung kết. Ông đã vô địch FIFA Club World Cup hai lần khi huấn luyện và đào tạo Milan và Real Madrid. [ 1 ] [ 2 ] Ancelotti cũng là một trong bảy người đã vô địch Cúp C1 châu Âu hoặc Champions League với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên. Ông được coi là một trong những HLV giỏi nhất và thành công xuất sắc nhất mọi thời đại. [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Với biệt danh Carletto,[6] Ancelotti chơi ở vị trí tiền vệ và bắt đầu sự nghiệp của mình với câu lạc bộ Ý Parma, giúp câu lạc bộ thăng hạng Serie B vào năm 1979. Ông chuyển đến Roma vào mùa giải tiếp theo, tại đó ông đã giành được một chức vô địch Serie A và bốn chức vô địch Coppa Italia, đồng thời chơi cho đội Milan cuối những năm 1980, tại đó Ancelotti đã giành được hai chức vô địch quốc gia và hai cúp châu Âu, cùng các danh hiệu khác. Ở cấp độ quốc tế, Ancelotti đã chơi cho đội tuyển quốc gia Ý 26 lần, ghi bàn một lần và xuất hiện trong hai kỳ FIFA World Cup, kết thúc ở vị trí thứ ba trong giải đấu năm 1990, cũng như đã giúp quốc gia của mình lọt vào bán kết UEFA Euro 1988.
Trên cương vị huấn luyện, Ancelotti đã làm việc cho Reggiana, Parma, Juventus, Milan, Chelsea, Paris Saint-Germain, Real Madrid, Bayern Munich, Napoli và Everton, và đã giành được các danh hiệu quốc nội ở Ý, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Đức.
Bạn đang đọc: Carlo Ancelotti – Wikipedia tiếng Việt
Sự nghiệp cầu thủ[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
Ancelotti khởi đầu sự nghiệp cầu thủ của mình vào năm 1974 với Parma. Năm 1979, ông chuyển đến A.S. Roma. Tại đây, ông đã giành được thương hiệu vô địch Serie A mùa bóng 1982 – 83 và 4 lần giành Coppa Italia .Từ năm 1987 đến 1992, ông tranh tài cho A.C. Milan, và cùng Milan giành 2 cúp C1 châu Âu liên tục trong những mùa giải 1988 – 89 và 1989 – 90. Những đồng đội của ông trong quá trình này có rất nhiều hảo thủ như Paolo Maldini, Franco Baresi, Mauro Tassotti và Alessandro Costacurta ở hàng hậu vệ ; Frank Rijkaard, Ruud Gullit, Roberto Donadoni ở hàng tiền vệ và tiền đạo Marco van Basten .
Trong trận bán kết lượt về cúp C1 châu Âu 1988–89 với Real Madrid, Ancelotti đã rê bóng qua 2 cầu thủ Real Madrid F.C. trước khi có cú sút xa ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 5 – 0 của Milan. Kết thúc trận đấu Milan giành chiến thắng chung cuộc với tổng tỷ số 6 – 1 và qua đó giành quyền vào chơi trận đấu cuối cùng của mùa giải. Trong trận chung kết tại Camp Nou sau đó với Steaua Bucureşti, Ancelotti cũng đã thi đấu trọn vẹn 90 phút. Góp công giúp Rossoneri giành chức vô địch châu Âu lần thứ 3 trong lịch sử với một chiến thắng huỷ diệt 4 – 0.
Ancelotti chính thức giải nghệ cầu thủ từ năm 1993, sau khi chơi 283 trận tại Serie A và ghi được 22 bàn thắng.[liên kết hỏng]
Đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]
Ancelotti có bàn thắng duy nhất cho đội tuyển Ý là trong trận hòa 1 – 1 với đội tuyển Hà Lan vào ngày 6 tháng 1 năm 1981 trong khuôn khổ giải Mundialito 1980 ( một giải đấu nhỏ được tổ chức triển khai giữa những đội tuyển đã từng vô địch quốc tế ) diễn ra trên đất Uruguay. Sau đó, ông đã cùng đội tuyển Ý tham gia World Cup 1986 và World Cup 1990, cùng với Roberto Donadoni, Roberto Mancini và Paolo Maldini. Ancelotti đã có 26 lần khoác áo đội tuyển trước khi công bố chia tay đội tuyển vào năm 1991 .
Sự nghiệp giảng dạy[sửa|sửa mã nguồn]
Ông là một trong 7 người từng vô địch Cúp C1 châu Âu / UEFA Champions League ở cả cương vị cầu thủ lẫn huấn luyện viên. Ông đã 05 lần vô địch Champions League trong đó hai lần khi còn tranh tài cho A.C. Milan ( 1989, 1990 ), hai lần khi dẫn dắt A.C. Milan ( 2003, 2007 ) và một lần khi dẫn dắt Real Madrid ( năm trước ) .Carlo Ancelotti mở màn sự nghiệp giảng dạy tại CLB nhỏ Reggiana, và ngay trong mùa bóng tiên phong làm huấn luyện viên, ông đã giúp Reggiana thăng hạng Serie A. Sau đó ông chuyển sang Parma và giúp CLB về nhì trong cùng năm. Ancelotti chuyển sang Juventus để thay thế sửa chữa Marcello Lippi – người vừa có quá trình rất thành công xuất sắc. Tuy nhiên, ông đã không cung ứng được sự kỳ vọng của ban chỉ huy Bianconeri khi chỉ đưa Juventus về nhì tại Serie A trong hai mùa bóng liên tục .
2001 – 2009 : AC Milan[sửa|sửa mã nguồn]
Carlo Ancelotti rời Juventus để sang thao tác tại AC Milan và mở ra tám năm huy hoàng. Trước khi đến Milan, Ancelotti trên cương vị huấn luyện và đào tạo vẫn chưa đoạt được thương hiệu lớn nào, nhưng trong tám năm tại sân San Siro ông đã đoạt hầu hết mọi chức vô địch ở Lever câu lạc bộ .
2013 – năm ngoái : Real Madrid[sửa|sửa mã nguồn]
- Ngày 25 tháng 6 năm 2013, Ancelotti trở thành HLV trưởng của Real với một bản hợp đồng có thời hạn 3 năm.
- Ngày 24 tháng 5 năm 2014, sau chiến thắng đầy ấn tượng trước Atlético Madrid trong trận chung kết UEFA Champions League, Ancelotti đã giúp Real hoàn thành giấc mơ Decima với chức vô địch châu Âu lần thứ 10 sau 12 năm chờ đợi. Qua đó, đây cũng là chức vô địch châu Âu thứ ba của ông trên cương vị huấn luyện viên, cân bằng với thành tích của huyền thoại Bob Paisley trong giai đoạn 1977 – 1981.
Ngày 23 tháng 5 năm 2018, Napoli đã công bố Ancelotti sẽ là người dẫn dắt câu lạc bộ từ mùa giải 2018–19 sau khi ông Maurizio Sarri đã chuyển sang dẫn dắt câu lạc bộ Chelsea. Ngày 19 tháng 8, ông có trận ra mắt Serie A trên cương vị HLV trưởng của Napoli bằng chiến thắng 2 – 1 trên sân Olimpico của S.S. Lazio. Ngày 3 tháng 9, ông nhận thất bại đầu tiên khi thua 3 – 0 trên sân của U.C. Sampdoria tại vòng 3 của Serie A.
Ngày 10 tháng 12 năm 2019, Ancelotti đã bị sa thải sau trận thắng 4 – 0 trên sân nhà trước Genk – trận đấu sau cuối vòng bảng UEFA Champions League 2019 – 20 mà Napoli đã giành vé vào vòng knock-out với tư cách là đội nhì bảng E. [ 7 ] Quyết định được đưa ra bởi quản trị Napoli, Aurelio De Laurentiis vào ngày 11 tháng 12. [ 8 ]
Ngày 21 tháng 12 năm 2019, Ancelotti được chỉ định làm huấn luyện viên của Everton với hợp đồng có thời hạn 4,5 năm đến mùa hè 2024. [ 9 ] Trận đấu tiên phong của ông trên cương vị huấn luyện viên là thắng lợi 1 – 0 trên sân nhà trước Burnley vào ngày 26 tháng 12. [ 10 ]
Ancelotti đã nhận được thương hiệu Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng của giải ngoại hạng Anh tháng 9 năm 2020 sau khi dẫn dắt Everton thắng 3 trận Ngoại Hạng Anh liên tục vào đầu mùa giải 2020 – 21. [ 11 ]
Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
Mùa
Câu lạc bộ
Hạng
League
Cup
Châu lục
Khác
Tổng
Trận
Bàn
Trận
Bàn
Trận
Bàn
Trận
Bàn
Trận
Bàn
Ý
Giải VĐQG
Cúp Quốc gia
Châu Âu[n 1]
Khác[n 2]
Tổng
1976–77
Parma
Serie C
1
0
–
–
–
1
0
1977–78
21
8
–
–
–
21
9
1978–79
Serie C1
33
5
–
–
–
33
5
1979–80
Roma
Serie A
27
3
9
0
–
–
36
3
1980–81
29
2
6
2
2
1
–
37
5
1981–82
5
0
0
0
3
1
–
8
1
1982–83
23
2
3
0
6
0
–
32
2
1983–84
9
0
5
0
4
0
–
18
0
1984–85
22
3
2
0
3
0
–
27
3
1985–86
29
0
4
0
–
–
33
0
1986–87
27
2
7
1
2
0
–
36
3
1987–88
Milan
Serie A
27
2
7
0
4
0
–
38
2
1988–89
28
2
2
0
7
1
1
0
38
3
1989–90
24
3
4
0
6
0
1
0
35
3
1990–91
21
1
4
0
4
0
2
0
31
1
1991–92
12
2
6
0
–
–
18
2
Tổng
Parma
55
13
—
—
—
55
13
Roma
171
12
36
3
20
2
—
226
17
Milan
112
10
23
0
21
1
4
0
160
11
Tổng sự nghiệp
338
35
59
3
41
3
4
0
442
41
[ 12 ]
Ý
Năm
Trận
Bàn
1981
4
1
1982
–
–
1983
4
0
1984
–
–
1985
–
–
1986
5
0
1987
3
0
1988
5
0
1989
0
0
1990
4
0
1991
1
0
Tổng
26
1
Bàn thắng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
[ 13 ]
STT
Ngày
Sân
Đối thủ
Tỷ số
Kết quả
Giải đấu
1.
6 tháng 1 năm 1981
Sân Centenario, Montevideo, Uruguay
Hà Lan
1 – 0
1 – 1
Mundialito 1980
Huấn luyện viên[sửa|sửa mã nguồn]
- Tính đến 11 tháng 2 năm 2021
Đời sống cá thể[sửa|sửa mã nguồn]
- Ancelotti có hai con: một con gái là Katia (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1984) và một con trai là Davide (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1989). Davide cũng từng chơi trong đội trẻ Milan và sau đó gia nhập A.S.D.C. Borgomanero (một câu lạc bộ lúc đó đang chơi ở Serie D) vào tháng 6 năm 2008. Sau một thời gian thi đấu chuyên nghiệp không thành công, anh chuyển sang học ngành Khoa học thể thao, trước khi đảm nhận vai trò trợ lý HLV thể lực tại Real Madrid ở giai đoạn Carletto còn là HLV trưởng ở đội chủ sân Bernabeu (2013 – 2015). Tháng 8 năm 2016, Ancelotti đã bổ nhiệm cả Davide và con rể Mino Fulco vào đội ngũ trợ lý của mình ở Bayern.[45][46]
- Năm 2008, Carletto xác nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng ông đã chia tay với người vợ 25 năm, Luisa Gibellini. Năm 2011, ông đã bắt đầu một mối quan hệ với nữ doanh nhân người Canada là Mariann Barrena McClay. Sau đó 2 người đã chính thức kết hôn tại Vancouver vào tháng 7 năm 2014.
- Vào tháng 5 năm 2009, ông xuất bản một cuốn tự truyện dài 26 chương, dày 264 trang có tiêu đề là Preferisco la Coppa. Tất cả số tiền thu được từ việc bán cuốn sách được ông quyên góp cho Quỹ Stefano Borgonovo để tài trợ cho nghiên cứu về bệnh xơ cứng cột bên teo cơ (ALS), một căn bệnh hiếm gặp mà nhà vật lý Stephen Hawking cùng với cựu danh thủ Stefano Borgonovo đều mắc phải.[47]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Xem thêm: Atlético Madrid – Wikipedia tiếng Việt