Đông Ngô – Wikipedia tiếng Việt

Ngô (吳) (229 – 1 tháng 5, 280) sử gọi là Tôn Ngô (孫吳) hay Đông Ngô (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó, nó tồn tại từ 220-222 với tư cách là một vương quốc chư hầu dưới danh nghĩa của Tào Ngụy – quốc gia đối thủ, nhưng sau đó tuyên bố độc lập với Ngụy và trở thành một quốc gia có chủ quyền vào năm 222. Đông Ngô trở thành một đế quốc vào năm 229 sau khi lãnh đạo Tôn Quyền tự xưng là hoàng đế. Tên của quốc gia này được bắt nguồn từ nơi nó tọa lạc – vùng Giang Nam (đồng bằng sông Dương Tử), còn được gọi là “Ngô” trong lịch sử. Nó được các nhà sử học gọi là “Đông Ngô” hoặc “Tôn Ngô” để phân biệt với các quốc gia lịch sử Trung Quốc khác có tên tương tự cũng nằm trong khu vực đó, chẳng hạn như nước Ngô vào Xuân Thu và vương quốc Ngô Việt trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Nó được gọi là “Đông Ngô” vì nó chiếm phần lớn miền đông Trung Quốc trong thời Tam Quốc và “Tôn Ngô” vì họ của người lãnh đạo nước này là “Tôn”. Trong thời gian tồn tại, thủ đô Đông Ngô ở Kiến Khang (ngày nay là Nam Kinh, Giang Tô), nhưng cũng có lúc ở Vũ Xương 武昌; ngày nay là Ngạc Châu, Hồ Bắc).[2]

Hình thế 3 nước theo hình chân vạc đã có từ nhiều năm trước khi nhà Đông Hán mất ( 220 ) : trong khi Tào Tháo chiếm giữ trung nguyên, Lưu Bị chiếm giữ Ích châu thì họ Tôn chiếm giữ Giang Đông. Cả ba người tuy chưa xưng hiệu nhưng trên thực tiễn đã quản trị những vùng đất này .Thời kỳ đầu, sau khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, xưng đế ở Lạc Dương lập ra nhà Tào Nguỵ ( 220 ), Lưu Bị xưng đế ở Tứ Xuyên để kế tục nhà Hán và Tôn Quyền ( con Tôn Kiên ) mới xưng vương ở Giang Đông, trên danh nghĩa thần phục Tào Ngụy. Sau khi Tào Phi mất ( 226 ), năm 229, Tôn Quyền xưng đế tại Kiến Nghiệp ( thuộc Nam Kinh thời nay ) .

Phần lớn miền bắc hoàn toàn thuộc nhà Ngụy, trong khi đó Thục chiếm miền tây nam và Ngô chiếm miền trung tâm phía nam và phía đông. Biên giới phía ngoài của ba quốc gia này là giới hạn hoặc ít chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa. Ví dụ, kiểm soát về chính trị của Thục Hán trên biên giới phía nam của mình bị giới hạn bởi các bộ lạc người Thái trong tỉnh Vân Nam và Myanma ngày nay, nhà Đông Ngô mặc dù đã kiểm soát miền bắc Việt Nam nhưng cũng bị giới hạn bởi vương quốc của người Champa ở phía cực nam.

Trên map Trung Quốc đương thời, Đông Ngô kiểm soát Dương Châu, Giao Châu và phần đông Kinh Châu .
Thời gian quản lý lê dài của Đại Đế Tôn Quyền ( 229 – 252 ) là khoảng chừng thời hạn cường thịnh nhất của vương quốc này. Việc di dân từ phía bắc và ” bình định ” những bộ lạc thiểu số đã làm tăng nhân lực cho nông nghiệp, đặc biệt quan trọng là ở hạ lưu sông Dương Tử. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thôi thúc việc mở mang một dải đất khu vực này và triển khai dung hợp dân tộc bản địa. Nhà Ngô đã tìm hiểu và khám phá vùng Bình nguyên Thái Hồ ở Tam Ngô ( Ngô Quận, Ngô Hưng, Cối Kê ) và khu vực vịnh Hàng Châu tiếp giáp với Kiến Nghiệp thuộc Q. Đan Dương đã tiếp giáp với những điểm tìm hiểu và khám phá mới tại Bình nguyên Giang Hán thuộc những Q. Giang Hạ, Nam Quận. Các điểm tìm hiểu và khám phá thuộc Q. Dự Chương và khu vực hồ Thẩm Dương và sông Cán Thủy đã tiếp nối những điểm khám phá mới vùng Động Đình hồ và lưu vực những sông Tương, Nguyên nằm tại Q. Trường Sa, Hành Dương, Tương Đông, Linh Lăng, Thiệu Lăng ; thậm chí còn vùng hẻo lánh tại Lĩnh nam là Phiên Ngung cũng được nối tiếp nhau, nhất là những địa phương Tam Ngô ( Đông Ngô nay là Tô Châu, Trung Ngô nay là Nhuận Châu, Tây Ngô nay là Hồ Châu thuộc Giang Tô ), Đan Dương, khu tìm hiểu và khám phá kinh tế tài chính được lan rộng ra chưa từng có .Các khu vực đồn điền nông nghiệp được hình thành dưới sự giám sát của những võ quan ( Điển nông Hiệu úy ) tại vùng Thương Châu ( nam Giang Tô ), Hoãn Thành ( Tiềm Giang, An Huy ). Đồn điền quân sự chiến lược tại Đông Ngô có 14 khu đa phần là những vùng giáp ranh với Ngụy. Hoãn thành là một đồn điền quan trọng của Đông Ngô có khoảng chừng 4000 khoảnh ruộng lúa nước, 600 chiếc thuyền, 180 vạn hộc lương .Dân số nước Ngô phân bổ tại những châu ( nghìn hộ ) : Dương Châu 358, Quảng Châu Trung Quốc 43, Giao Châu 26 .Năm 238 Tôn Quyền chuyển kinh đô từ Vũ Xương ( Kinh Châu, Hồ Bắc ) về Mạt Lăng ( Dương Châu, Giang Tô ) và đổi tên là Kiến Nghiệp, cho đắp thành Thạch Đầu. Vận tải đường sông tăng trưởng, với sự sinh ra của những kênh Chiết Đông và Giang Nam .

Thương mại với Thục Hán phát triển, với một sự lưu thông lớn của bông từ Thục và sự phát triển của đồ tráng men và công nghệ luyện kim. Vận tải biển đã được hoàn thiện hơn để có thể đến được Đông Bắc Á, các vùng Cao Ly, Nhật Bản, Mãn Châu và Đài Loan, và xa hơn nữa đến vùng Syria (Trung Đông). Các tàu buôn có thể chở được tới 700 người và 260 tấn hàng. Nhà Ngô có nền công nghiệp đóng tàu phát triển mạnh, có thể đóng những chiếc tàu chở được 3000 quân.Với sự phát triển của kinh tế thì văn hóa, nghệ thuật cũng phát triển theo. Tại Đồng bằng sông Dương Tử, những ảnh hưởng đầu tiên của Phật giáo đã xuất hiện ở phía nam Lạc Dương.

Tôn Quyền rất là tăng trưởng xuống dải đất Đông Nam. Phạm vi quản lý của nhà Ngô lan rộng ra xuống phía nam, với việc xây dựng đơn vị chức năng hành chính Quảng châu ( Quảng có nghĩa là lan rộng ra, là tỉnh Quảng Đông ngày này ) năm 226 .Để mở mang miền ven biển năm 230, Tôn Quyền phái đội thuyền 10 nghìn người, do Tướng quân Vệ Ôn và Gia Cát Trực suất lĩnh ra biển, đến Di Châu ( nay là Đài Loan ). Đó là sự ghi chép sớm nhất, minh xác nhất trong văn hiến hiện có tương quan đến việc qua lại giữa Đại lục và Đài Loan. Đạo quân này cũng triển khai những chuyến hải hành đến Quần đảo Lưu Cầu và Nhật Bản với mục tiêu thương mại và ngày càng tăng ảnh hưởng tác động quân sự chiến lược .

Nhằm tăng cường giao thương với bên ngoài, nhà Ngô mở rộng hoạt động thương mại trên biển. Các sứ thần nhà Ngô là Tuyên hóa Tùng sự Chu Ứng và Trung lang Khang Thái được cử đến các nước Champa (miền Trung Việt Nam), Phù Nam (Campuchia và Đồng bằng châu thổ Mekong), các quốc gia trên Bán đảo Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ và Trung Cận Đông vào thời gian khoảng nằm giữa các năm 245 và 250. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện.

Suy yếu và diệt vong[sửa|sửa mã nguồn]

Sau cái chết của Tôn Quyền năm 252, không có người kế tục xứng danh, nhà Ngô khởi đầu đi xuống. Trong nước, quyền thần đánh nhau lục đục khiến nội bộ thêm suy yếu. Những cuộc ép chế thành công xuất sắc do Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu triển khai trước những cuộc làm mưa làm gió ở khu vực Hoài Nam ( chủ quyền lãnh thổ Nguỵ ) đã làm giảm ảnh hưởng tác động của nhà Ngô .Sau khi Cảnh đế Tôn Hưu chết, Tôn Hạo lên thay lại là người tàn ác gian ác khiến nhân tâm thêm chia lìa. Năm 269 Dương Hựu, tướng nhà Tấn ( nhà Tấn được Tư Mã Viêm xây dựng sau khi hủy hoại nhà Ngụy và Thục ), khởi đầu sẵn sàng chuẩn bị lấn chiếm nước Ngô bằng việc kiến thiết xây dựng hạm quân và đào tạo và giảng dạy thủy quân tại Tứ Xuyên dưới quyền Vương Tuấn. Bốn năm sau, Lục Kháng, vị tướng giỏi ở đầu cuối của nhà Ngô chết, nước Ngô không còn tướng tài. Kế hoạch lấn chiếm của nhà Tấn ở đầu cuối đã diễn ra vào mùa đông năm 279 .

Tư Mã Viêm ra lệnh tấn công bằng 5 cánh quân đồng thời dọc theo sông Dương Tử từ Kiến Khang tới Giang Lăng trong khi hạm đội từ Tứ Xuyên xuôi dòng tới Kinh Châu dưới sự chỉ huy của các tướng Đỗ Dự, Vương Tuấn. Trước các cuộc tấn công mãnh liệt của quân Tấn, lực lượng nhà Ngô tan rã và Kiến Khang mất vào tháng 3 năm 280, Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, kết thúc nhà Đông Ngô.

Khởi đầu Lục triều[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi Đông Ngô diệt vong 38 năm, tới năm 318 đến lượt nhà Tấn của con cháu Tư Mã Viêm phải chạy về Giang Nam lánh nạn Ngũ Hồ lấn chiếm phương Bắc, gọi là nhà Đông Tấn .

Sau đó liên tiếp 4 triều đại nữa là Lưu Tống, Nam Tề, Lương và Trần cùng cai trị Giang Nam, đều đóng đô ở Kiến Nghiệp, gọi là Nam Triều trong thời Nam Bắc Triều. Sử gọi các triều đại từ Đông Ngô đến Trần (229 – 589) ở Giang Nam là Lục triều và Đông Ngô chính là triều đại đầu tiên.

Thế phả vua Đông Ngô[sửa|sửa mã nguồn]

Một số nhân vật quan trọng[sửa|sửa mã nguồn]

Source: thabet
Category: Game