Thibaut Courtois – Wikipedia tiếng Việt

Thibaut Nicolas Marc Courtois (sinh ngày 11 tháng 5 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Real Madrid tại La Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ. Anh được nhiều người coi là một trong những thủ môn xuất sắc nhất thế giới.[3]

Courtois trưởng thành từ mạng lưới hệ thống đội trẻ của Genk, và ở tuổi 18, anh có vai trò quan trọng trong chức vô địch vương quốc Bỉ của đội. Vào tháng 7 năm 2011, anh gia nhập Chelsea với mức giá 8 triệu Euro và ngay lập tức được mượn đến Atlético Madrid. Trong ba mùa giải ở đó, anh giành chức vô địch Europa League vào năm 2012, Copa del Rey vào năm 2013 và thương hiệu La Liga vào năm năm trước. Anh cũng giành phần thưởng Ricardo Zamora cho thủ môn xuất sắc nhất ở La Liga nhờ vào màn trình diễn của anh ở hai mùa giải sau cuối. Courtois trở lại Chelsea vào tháng 7 năm năm trước và ở mùa giải tiên phong của anh, anh giúp đội bóng vô địch Cúp Liên đoàn và Premier League. Hai năm sau, anh giành giải Găng tay vàng Premier League khi Chelsea một lần nữa vô địch giải đấu. Vào năm 2018, Real Madrid mua Courtois với mức giá 35 triệu Euro, trở thành thủ môn đắt giá nhất của La Liga, vượt qua kỷ lục thiết lập bởi Jan Oblak. Anh giành thương hiệu La Liga thứ hai và phần thưởng Zamora thứ ba vào năm 2020 .Courtois có trận đấu ra đời đội tuyển vương quốc vào tháng 10 năm 2011, trở thành thủ môn trẻ nhất đại diện thay mặt cho Bỉ. Kể từ đó anh có hơn 80 lần ra sân và góp mặt tại FIFA World Cup năm trước, UEFA Euro năm nay và FIFA World Cup 2018 nơi mà anh nhận phần thưởng Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất giải đấu khi Bỉ xếp hạng ba .

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Sự nghiệp sớm[sửa|sửa mã nguồn]

Thibaut Courtois gia nhập câu lạc bộ Bilzen VV từ lúc 5 tuổi. Anh bắt đầu thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái. Sau đó, vào năm 1999, anh gia nhập câu lạc bộ Racing Genk lúc 7 tuổi và cùng lúc đó anh chuyển sang thi đấu ở vị trí thủ môn

Ngày 17 tháng 4 năm 2009, Thibaut Courtois gia nhập đội một của Racing Genk sau khi kết thúc tranh tài ở đội trẻ. Anh từ từ biểu lộ được phong độ chói sáng và nhờ đó anh đã trở thành thủ môn bắt chính của đội bóng .
Ngày 16 tháng bảy 2011, Genk đồng ý chấp thuận một khoản phí với câu lạc bộ Chelsea về cuộc chuyển nhượng ủy quyền của Thibaut Courtois với giá 7.9 triệu bảng. [ 4 ]

Cho mượn tới Atlético Madrid[sửa|sửa mã nguồn]

Chỉ sau vài ngày chuyển tới Chelsea, anh được cho mượn sang câu lạc bộ Atlético Madrid. Anh đã giúp ATM có được chức vô địch La Liga vào năm 2013 – năm trước

Trở lại Chelsea[sửa|sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm năm trước, HLV José Mourinho xác nhận Courtois sẽ trở lại Chelsea cho mùa giải mới. [ 5 ] Anh được mặc áo số 13. [ 6 ] 18/8/2014 anh có trận tiên phong bắt chính cho Chelsea trong trận thắng 3-1 trước Burnley. [ 7 ] Trở lại Chelsea, anh ngay lập tức lấy được lòng CĐV nhà và vị trí số một trong khung gỗ của Petr Cech. Khiến Cech phải dự bị trong thời hạn dài .

Mùa giải 2011- 2012

Courtois ra đời cho Atlético trong thắng lợi 4-0 tại đấu trường UEFA Europa League trong Vitória de Guimarães vào ngày 25 tháng 8, và ba ngày sau đó anh liên tục giữ sạch lưới ở trận đấu đầu tiền của mình tại La Liga, một trận hòa không bàn thắng với Osasuna tại sân hoạt động Vicente Calderón. Courtois đã trở thành sự lựa chọn số 1 khi người cạnh tranh đối đầu suất đá chính với anh là Sergio Asenjo, tiếp với phong độ khá tốt, Courtois liên tục bốn lần giữ sạch lưới trong sáu trận đấu La Liga tiên phong của mình. Ngày 26 Tháng 11 năm 2011, Courtois lần tiên phong nhận thẻ đỏ trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình sau khi vào bóng với Karim Benzema của Real Madrid ở một trường hợp nguy khốn. Cristiano Ronaldo đặt hình phạt qua thủ môn thay thế sửa chữa Asenjo và trận đấu này Atlético mất ba điểm vào tay thầy trò Mourinho với tỉ số 1-4. Atlético đã giành được chức vô địch 2012 UEFA Europa League, và Courtois giữ sạch lưới khi CLB giành thắng lợi 3-0 trước CLB đồng quê hương Tây Ban Nha – Athletic Bilbao .

Mùa giải 2012- 2013

Với những gì mà chàng Thủ môn số một đem lại, Atlético liên tục mượn Courtois từ Chelsea F.C cho đến hết mùa giải 2012 – 2013. Trận đấu tiên phong của anh với chính câu lạc mẹ của mình – Chelsea là một trận thắng đầy thuyết phục mà Courtois đã tranh tài. Chính là trận chung kết UEFA Super Cup ở Monaco năm 2012, mà kết thúc trong thắng lợi 4-1 cho Atletico Madrid. Sau đó, trong những đấu trường quốc nội và quốc ngoại, Courtois lập kỷ lục 820 phút giữ sạch lưới cho Atlético Madrid mà không thủng lưới bàn nào tại sân nhà Estadio Vicente Calderon, Kỉ lục này đã kết thúc bằng một trận thua tức tưởi 1-0 trước câu lạc bộ cửa dưới Real Sociedad. Năm 2013, Atlético giành được chiếc cúp Copa del Rey với thắng lợi 2-1 trước đối thủ cạnh tranh cùng thành phố Real, lần tiên phong Atlético đã vượt mặt đối thủ cạnh tranh thành phố của họ trong 14 năm và tất yếu là cái tên Courtois được xướng lên như là người hùng của trận đấu .

Đời sống riêng tư[sửa|sửa mã nguồn]

Chị gái của Thibaut, Valérie, là một cầu thủ bóng chuyền [ 8 ] chơi ở vị trí libero [ 9 ] và đại diện thay mặt cho tuyển vương quốc Bỉ trên đấu trường quốc tế. Bố mẹ anh cũng từng là cầu thủ bóng chuyền. Hồi còn nhỏ Courtois cũng có chơi, tuy nhiên tới năm 12 tuổi anh quyết định hành động tập trung chuyên sâu trọn vẹn vào bóng đá .Bạn gái hiện tại của Courtois là Marta Dominguez, một nữ sinh 22 tuổi người Tây Ban Nha. Hai người gặp nhau tại một hộp đêm nơi Marta làm ship hàng. Cô trọn vẹn kín tiếng lặng thầm trước công chúng, không sử dụng Instagram hay Twitter và Facebook được để ở chính sách riêng tư, chưa từng vấn đáp một câu hỏi phỏng vấn nào về mối quan hệ tình cảm của hai người. Chỉ sau trận đấu giữa Atlético Madrid và Barca, sau khi tiếng còi kết thúc trận đấu vang lên với tỉ số 1-1, Courtois chạy tới hôn Marta – lúc đó chỉ là một cô gái trọn vẹn vô danh – thì giới tiếp thị quảng cáo mới biết tới mối quan hệ của hai người .

Sự nghiệp tranh tài đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Vào ngày 3 tháng 6 năm 2011, Courtois có tên trong list cầu thủ tham gia vòng loại Euro 2012 của đội tuyển Bỉ đấu với Kazakhstan ( Bỉ thắng 4-1 ). Ngày 11/10/2011, anh cũng có tên trong list tham gia vòng loại Euro 2012, nhưng một lần nữa anh bị bỏ trên băng ghế dự bị, trận đấu kết thúc, Bỉ thua 3-1 .Ngày 15/11/2011, lần tiên phong Courtois được điền tên vào đội hình xuất phát trong trận đấu giao hữu với Pháp, anh trở thành thủ môn trẻ nhất từng chơi cho Đội tuyển Bỉ .

Ngày 30/5/2016, anh được huấn luyện viên Marc Wilmots triệu tập tham dự Euro 2016, giải đấu mà anh được bắt chính cả ba trận vòng bảng rồi lọt vào đến tứ kết trước khi để thua xứ Wales.

Anh liên tục có tên trong list 23 cầu thủ Bỉ tham gia World Cup 2018, giải đấu mà anh và những đồng đội đã giành huy chương đồng chung cuộc sau khi vượt qua Anh ở trận tranh 3/4. Kết thúc giải, anh được nhận thương hiệu thủ môn xuất sắc nhất của World Cup 2018. Nhờ đó, anh có tên trong list đội hình tiêu biểu vượt trội nhất của giải .

Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến 20 tháng 3 năm 2021[10][11]

Câu lạc bộ

Mùa giải

Giải đấu[12]

Cúp quốc gia[13]
League Cup
Châu Âu

Khác

Tổng cộng

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Genk
2008–09

1
0
0
0



1
0

2009–10

0
0
0
0

0
0
0
0
0
0

2010–11

40
0
1
0

3[a]
0

44
0

Tổng cộng

41
0
1
0

3
0
0
0
45
0

Atlético Madrid (mượn)

2011–12

37
0
0
0

15[a]
0

52
0

2012–13

37
0
8
0

1[b]
0

46
0

2013–14

37
0
5
0

12[c]
0
2[d]
0
56
0

Tổng cộng

111
0
13
0

28
0
2
0
154
0

Chelsea

2014–15

32
0
0
0
2
0
5[c]
0

39
0

2015–16

23
0
3
0
0
0
3[c]
0
1[e]
0
30
0

2016–17

36
0
3
0
0
0


39
0

2017–18

35
0
1
0
1
0
8[c]
0
1[e]
0
46
0

Tổng cộng

126
0
7
0
3
0
16
0
2
0
154
0

Real Madrid

2018–19

27
0
1
0

5[c]
0
2[f]
0
35
0

2019–20

34
0
0
0

6[c]
0
2[g]
0
42
0

2020–21

28
0
0
0

8[c]
0
1[d]
0
37
0

Tổng cộng

89
0
1
0

20
0
5
0
115
0

Tổng cộng

367
0
22
0
3
0
66
0
10
0
468
0

Đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến 10 tháng 10 năm 2021[14][15]

Bỉ

Năm
Trận
Bàn

2011
1
0

2012
6
0

2013
7
0

2014
13
0

2015
6
0

2016
14
0

2017
7
0

2018
16
0

2019
9
0

2020
2
0

2021
12
0

Tổng cộng
93
0

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

  • Hạng ba FIFA World Cup 2018
  • Thủ môn chuyên nghiệp người Bỉ của năm: 2011
  • Chiếc giày đồng của Bỉ: 2011
  • La Liga Zamora Trophy: 2012–13, 2013–14, 2019–20
  • Thủ môn xuất sắc nhất La liga: 2012–13
  • Cầu thủ xuất sắc nhất La liga: Tháng 1 năm 2020
  • Cầu thủ Bỉ xuất sắc nhất ở nước ngoài: 2013, 2014
  • Đội ESM của năm: 2013–14
  • Đội hình xuất sắc nhất UEFA Champions League: 2013–14
  • Đội hình thứ 2 FIFA FIFPro World XI: 2014, 2018
  • Thủ môn xuất sắc nhất của giải thưởng bóng đá London: 2015
  • Vận động viên của năm của Bỉ: 2014
  • Găng tay vàng Premier League: 2026–17
  • Găng tay vàng FIFA World Cup: 2018
  • Đội hình giả tưởng của FIFA World Cup: 2018
  • Đội hình trong mơ của FIFA World Cup: 2018
  • Thủ môn xuất sắc nhất FIFA: 2018
  • Thủ môn xuất sắc nhất thế giới IFFHS: 2018
  • Đội tuyển thế giới nam IFFHS: 2018
  • Đội hình tiêu biểu của La Liga: 2019–20

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: thabet
Category: Thể thao