Tru di – Wikipedia tiếng Việt

Tru di (chữ Hán: 誅夷) hay tộc tru (chữ Hán: 族誅), là một hình phạt tàn bạo thời phong kiến ở các nước Đông Á như Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Hình phạt này xử tử không chỉ tội nhân mà còn cả gia tộc thân nhân của họ trong phạm vi nhiều đời.

Theo Từ điển Hán Việt Thiều Chửu thì :

  • “Tru” (誅): giết, kể rõ tội lỗi ra mà giết đi gọi là tru, giết cả kẻ nọ kẻ kia không những một người cũng gọi là tru;
  • “Di” (夷): giết hết, xưa ai có tội nặng thì giết hết cả chín họ gọi là di.
  • “Tộc” (族): Loài, dòng dõi, con cháu cùng liên thuộc với nhau gọi là tộc. Từ cha con đến cháu là ba dòng (tam tộc, 三族), từ ông cao tổ đến cháu huyền gọi là chín dòng (cửu tộc, 九族). Giết cả cha mẹ vợ con gọi là diệt tộc (滅族).

Hình phạt Tru di dựa trên quan hệ mái ấm gia đình truyền thống cuội nguồn trong xã hội cổ đại Trung Quốc. [ 1 ] Hình phạt này thường vận dụng cho những tội danh nặng nhất theo ý niệm phong kiến Trung Quốc, gồm ” thông địch phản quốc ” ( phản quốc, tư thông với kẻ địch ), ” khi quân phạm thượng ” ( dối vua, mạo phạm đến hoàng gia ), ” mật mưu tạo phản ” ( thủ đoạn làm mưa làm gió ), ” thao thiên tử tội ” ( tội chết nặng nề ). Trong chế độ quân chủ chuyên chế, hình phạt này diệt trừ hậu hoạn, nhổ cỏ tận gốc những tác động ảnh hưởng từ tội nhân cùng thân nhân của họ, đồng thời củng cố uy quyền tối cao của nhà vua .

Hình phạt Tru di được cho rằng khởi thủy từ triều Thương trong lịch sử Trung Quốc. Bấy giờ, hình phạt này được gọi là nhị điễn (劓殄), xử tử tội nhân cùng với con cái của họ. Sách Sử ký, thiên “Triệu thế gia”, có chép vụ án Tru di thời Xuân Thu, khi viên quan nước Tấn là Đồ Ngạn Cổ[2] được sự đồng ý của Tấn Cảnh công, đem quân tru diệt toàn bộ gia tộc công thần Triệu Sóc. Sự kiện này là nguyên mẫu để tác gia Kỷ Quân Tường thời nhà Nguyên sáng tác vở tạp kịch Con côi nhà họ Triệu nổi tiếng. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì giai thoại này có lẽ là hư cấu.

Đến thời Tần, hình phạt này lan rộng ra khoanh vùng phạm vi ” tam tộc ” ( 3 dòng ), ” ngũ tộc ” ( 5 dòng ), ” thất tộc ” ( 7 dòng ). Đến thời Tùy, hình phạt này bị Tùy Văn đế phế trừ, nhưng sau Tùy Dạng đế lại cho Phục hồi và lan rộng ra đến cả ” cửu tộc ” ( 9 dòng ). [ 3 ] [ 4 ] Thậm chí, thời Minh Thành Tổ còn ra lệnh tru di đến ” thập tộc ” trong vụ án Văn Hiếu Nhụ, giết chết tổng số có 873 người, không riêng gì 9 dòng gia tộc Phương Hiếu Nhụ, mà cả thân hữu, môn đồ của ông cũng vạ lây vì bị Minh Thành Tổ gộp lại cho thành dòng thứ 10. [ 5 ]Do ảnh hưởng tác động đồng văn với Nước Trung Hoa, trong lịch sử dân tộc của những vương quốc Triều Tiên, Nhật Bản, Nước Ta, hình phạt Tru di cũng được vận dụng trong những triều đình chuyên chế gây nên những vụ tàn sát thảm khốc nổi tiếng như Vụ án Lệ Chi Viên trong lịch sử vẻ vang Nước Ta .

Tru di tam tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Có nhiều thuyết khác nhau về định nghĩa ” tam tộc “. Có thuyết cho rằng ” tam tộc ” là ” phụ mẫu ” ( cha mẹ ), ” huynh đệ ” ( đồng đội ), ” thê tử ” ( vợ con ). Thuyết khác cho rằng ” tam tộc ” chính là ” phụ ” ( cha ), ” mẫu ” ( mẹ ), thê ( vợ ). Cũng có thuyết lại cho ” tam tộc ” là ” phụ ” ( cha ), ” tử ” ( con ), ” tôn ” ( cháu ). [ 6 ]

Vụ án Tru di tam tộc đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Trung Quốc là vụ quyền thần Triệu Cao vu cho thừa tướng Lý Tư làm phản, mượn tay Tần Nhị thế xử tử 3 họ nhà Lý Tư. Tuy nhiên, về sau 3 họ nhà Triệu Cao cũng bị chính vua Tần Tử Anh xử tử.[7]

Trong lịch sử vẻ vang Nước Ta, vụ án Tru di tam tộc nổi tiếng nhất là Vụ án Lệ Chi Viên khi lão thần Nguyễn Trãi và người thiếp là Nguyễn Thị Lộ bị vu tội giết vua Lê Thái Tông, bị triều đình khép án .

Tru di cửu tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Tương tự như ” tam tộc “, ” cửu tộc ” cũng có nhiều thuyết khác nhau. Các Nho gia đời Hán có 2 thuyết :

Cửu tộc đời Chu[sửa|sửa mã nguồn]

Theo Tộc chế đời nhà Chu, cửu tộc là 9 hạng người có liên hệ thân thuộc với bản thân phạm nhân:

  1. Cha mẹ, anh chị em, con trai con gái.
  2. Cô ruột.
  3. Con chị em gái.
  4. Cháu ngoại. (Bốn hạng người trên thuộc Tộc của cha)
  5. Ông ngoại.
  6. Bà ngoại.
  7. Dì ruột. (Ba hạng người này thuộc Tộc của mẹ)
  8. Cha vợ.
  9. Mẹ vợ. (Hai hạng người này thuộc Tộc của vợ)

Cửu tộc đời Tần[sửa|sửa mã nguồn]

Ðến thời nhà Tần, nhà Hán, Cửu Tộc đổi lại, lấy y theo thời vua Nghiêu vua Thuấn, tức là lấy người trong họ của cha, bà con trực hệ làm căn bản, từ bản thân suy lên 4 đời, và từ bản thân lấy xuống 4 đời, tổng cộng là 9 đời, kể ra sau đây:

  1. Cao Tổ: Kỵ Nội.
  2. Tằng Tổ: Cụ Nội.
  3. Tổ Phụ: Ông Nội.
  4. Phụ: Cha.
  5. Ngang với phạm nhân: anh em trai ruột (thân huynh đệ), anh em họ trai khác họ (biểu huynh đệ), anh em họ trai cùng họ (đường huynh đệ/nhị tòng huynh đệ, tức những người cùng ông nội, cụ nội), có thể lấy đến chung 3 thế hệ (tam tòng huynh đệ, tức là những người cùng kỵ nội)
  6. Nhi: Con trai con gái.
  7. Tôn: Cháu nội.
  8. Tằng tôn: Chắt
  9. Huyền tôn: Chút.

Nhưng cho đến nay người ta vẫn ý niệm thường thì là lấy và hiểu 9 họ theo đời nhà Chu .

Tru di thập tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Yên vương Chu Đệ cướp ngôi soán vị của cháu là Minh Huệ Đế. Phương Hiếu Nhụ viết lên 4 chữ “Yên tặc thoán vị” (燕賊篡位, Giặc Yên cướp ngôi), khiến Chu Đệ nổi giận đòi tru di cửu tộc. Họ Phương khi nghe còn cười khẩy, “Tru di thập tộc đã làm gì được ta nào!” Vì thế Chu Đệ đã gom cả môn sinh bằng hữu của họ Phương thành nhóm thứ 10. Tổng cộng có 873 người bị giết.[5] Số người sống lưu vong, bị sung quân cũng lên đến hàng ngàn.

Trong bài thơ “Mộ kỳ lân” của thi hào Nguyễn Du có câu: “Bạo nộ nhất sính di thập tộc” (暴怒一逞夷十族, Để hả một cơn giận, giết cả mười họ người ta) chính là nhắc đến sự kiện này.

Source: thabet
Category: Game